Luyện thi đại học môn Văn: Thiên nhiên hùng vĩ, thắm tươi trong tác phẩm "Việt Bắc" của nhà thơ Tố Hữu
Đề bài: Thiên nhiên Việt Bắc hùng vĩ, thắm tươi đã cùng con người đánh giặc và ghi lại biết bao chiến công anh hùng.
A. 10 câu đầu:Bộ tranh tứ bình
Mỗi
chúng ta ai chẳng có một miền đất, một vùng quê để thương để nhớ suốt cả cuộc đời.
Đó có thể là nơi “chôn rau cắt rốn” của
ta, nơi những người thân ta đang sống và cũng có thể là mảnh đất thấm đẫm những
kỉ niệm trong đời. Với Tố Hữu thì đấy là mảnh đất Việt Bắc chan chứa nghĩa
tình, mảnh đất ghi dấu bao kỉ niệm về những ngày đầm ấm, keo sơn giữa những con
người nơi đây với những chiến sĩ Cách mạng. “Việt Bắc” là niềm thương nỗi nhớ, là hoài niệm thường trực trong
trái tim nhà thơ. Bởi vậy mà khi xa rồi, âm vang về một miền quê đã vút lên
thành những vần thơ ngạt ngào, sâu lắng. Đoạn thơ trên tính từ bài thơ “Việt Bắc” một trong những đỉnh cao của thơ Tố Hữu, sáng
tác tháng 10 – 1945.Đoạn thơ nói về nỗi nhớ cảnh và người Việt Bắc của người
cán bộ về xuôi.
1) Hai câu đầu: Giới thiệu cảm xúc chung của đoạn thơ.
Mở đầu
đoạn thơ là hai câu giới thiệu nội dung bao quát đoạn:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ
những hoa cùng người”
Câu hỏi tu từ “mình
có nhớ ta” vừa là lời đối thoại, vừa là cái cầu nối xuống câu dưới và đấy cũng là cái cớ để
bày tỏ tấm lòng, nỗi niềm của mình. Với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ
đến những ngày tháng gian khổ “bát cơm sẻ
nửa, chăn sui đắp cùng” mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của “hoa cùng người”. Từ xưa đến nay, trong
văn chương nghệ thuật, hoa và trăng là biểu tượng của cái đẹp từ thiên nhiên tạo
vật. Ở đây, “hoa” tượng trưng cho cái
đẹp thiên nhiên Việt Bắc. “Hoa” ở bên
“người” để “người” mang gương mặt sắc màu của “hoa”. “Người” ở bên “hoa” để cho “hoa” mang hồn “người”. “Hoa” và “người” quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hai hoà, đằm thắm để tạo nên
nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Chính điều ấy đã tạo nên cấu trúc đặc
sắc của doạn thơ. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu 6 dành cho nhớ “hoa”, nhớ cảnh; câu 8 dành cho nhớ “người”. Cảnh và người trong mỗi câu có
những sắc thái, đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Đọc những câu thơ trên, chúng ta có cảm giác tác giả viết
không hề trau chuốt mà cứ chảy từ tấm lòng nhớ thương da diết của người cán bộ
miền xuôi. Qua đấy, cảnh và người cùng những hoạt động của nó ở núi rừng chiến
khu Việt Bắc cứ dần dần hiện lên bốn mùa trong năm. Mỗi mùa có một màu sắc, âm
thanh có đủ chủ đạo tạo thành mộ bộ tứ bình đặc sắc: khi lắng dịu, khi rực rỡ
chói chang, khi rộn ràng náo nức.
2) Bộ tranh tứ
bình về cảnh và người Việt Bắc.
a) Đông về với màu
xanh trầm mặc bát ngát, bao la của cánh rừng có điểm những bông chuối đỏ
tươi như những bó đuốc thắp sáng rực, tạo nên những bức tranh với đường nét màu
sắc vừa đối lập, vừa hài hoà, vừa cổ điển, vừa hiện đại. Cái màu đỏ tươi của
hoa chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên Việt
Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ,
lạnh giá, hiu hắt vốn có của núi rừng.
Cùng hiện lên với cái lung linh của hoa chuối ấy, là con
người của vùng chiến khu lên núi phát nương làm rẫy, sản xuất nhiều lúa khoai
cung cấp cho kháng chiến… Trước thiên nhiên bao la, con người càng trở nên kỳ
vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây, nhà thơ không khắc hoạ gương mặt mà chớp lấy một nét
thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp loé trên lưỡi dao rừng ở ngang
lưng. Con người như một tụ điểm của ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở
một vị trí, tư thế đẹp nhất. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững
chãi: giữa núi và nắng, giữa trời cao bao la với rừng xanh mênh mang. Con người
ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
b) Đông qua mùa
xuân lại về.
Mùa xuân về mang điều tốt lành cho con người, báo hiệu những
niềm vui, sức sống âm thầm đang trỗi dậy. Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu
trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết hoa mơ nở trắng rừng. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ.
Tính từ “trắng rừng” được dùng như động
từ, có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc. Màu trắng dường như lấn át tất cả với
màu xanh của lá và làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng
khuâng, dịu mát hoa mơ. Điều đó chứng tỏ, đây là giờ của hoa mơ nở rộ nhất và ẩn
chứa đằng sau đó những niềm vui thiêng liêng. Đúng như Tố Hữu đã viết về giây
phút Bác Hồ đặt chân lên biến giới:
“Ôi! Sáng xuân nay xuân 41
Trắng
rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về …Im lặng
con chim hót
Thánh thót bờ
lau vui ngẩn ngơ”
Nổi bật
trên nền của, hoa mơ nở trắng ấy, là hình ảnh con người với công việc của mùa
xuân: đan nên những chiếc nón tình nghĩa gửi tặng bộ đội dân công. Hình ảnh thơ
đã nói lên được bàn tay khéo léo, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút và phẩm chất tần
tảo của con người Việt Bắc.
c) Mùa hè.
Bức
tranh trong nỗi nhớ của Tố Hữu không chỉ có màu đỏ tươi của hoa chuối, màu xanh
ngắt của rừng, màu trắng muốt của hoa mơ, mà còn có cả màu vàng rực của cây
phách “ve kêu rừng phách đổ vàng”. “Đổ vàng” có nghĩa là chuyển sang màu
vàng, nhưng nhiều và đậm hơn, gợi cảm giác đột ngột. Màu của cây phách “đổ vàng” cả suối ngàn, dường như làm cho
ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên vàng óng
thêm ra. Đây là một bức tranh sơn màu được vẽ lên bằng hoài niệm nên lung linh
ánh sáng, rực rỡ sắc màu và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong
việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa mà còn có tài năng trong việc miêu tả sự
vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ trên mà ta
thấy cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và
cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là biểu hiện đặc sắc của tính dân
tộc.
Hiện
lên trong cái thiên nhiên óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần
mẫn đi hái búp măng rừng, cung cấp cho bộ đội kháng chiến. “Hái măng một mình” mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt,
mà trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi, thân thương, tha thiết. Hình ảnh
thơ cũng gợi lên được hình ảnh chịu thương chịu khó của cô gái. Đằng sau đó, ẩn
chứa biết bao niềm thân thương, trân trọng, cảm phục của tác giả.
d) Mùa thu.
Thu
sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo,
dịu mát (“Rừng thu…thuỷ chung”). “Trăng rọi hoà bình” là ánh trăng chiếu
sáng không khí thanh bình nơi chiến khu kháng chiến. Những ai đã từng trải qua
những tháng ngày mưa bom bão đạn, thì mới thấy sự xúc động của lòng người trong
những đêm trăng hoà bình đó. Vì vậy, tả cảnh trăng mà không cảm thấy vắng lặng,
lạnh lẽo; trái lại đã gợi lên không khí rạo rực, đắm say. Bởi giữa ánh trăng rừng
ấy đã vang lên tiếng hát mang đậm ân tình thuỷ chung của ai đó càng làm cho ánh
trăng như sáng hơn và cũng lung linh thắm đượm tình người Việt Bắc hơn.
(Tiểu kết đoạn: Tóm lại đây là đoạn
thơ vừa sâu sắc về nội dung, vừa độc đáo về nghệ thuật. Nó xứng đáng là đoạn
thơ hay nhất trong “Việt Bắc”. Đoạn
thơ cũng cho ta thấy rõ phong cách thơ Tố Hữu: trữ tình, sâu lắng, tha thiết,
ân tình mang đậm tính dân tộc. Những câu thơ lục bát đậm đà âm hưởng ca dao nhịp
nhàng, uyển chuyển cứ tuôn trào và dạt dào cảm xúc qua cách xưng hô “mình” và “ta”, một cách xưng hô truyền thống thắm thiết nghĩa tình. Nhạc điệu
dịu dàng, trầm bổng khiến cho cả doạn thơ mang âm hưởng bâng khuâng, êm ái như
một khúc hát ru kỉ niệm. Đặc biệt từ “nhớ”
được láy lại nhiều lần, mỗi lần một khác và sắc độ tăng dần lên làm cụ thể hơn
tấm lòng của người ra đi đối với cảnh và người Việt Bắc).
c) Kết
luận.
Nhìn
chung, đây là bộ tranh tứ bình thật đẹp đẽ, nên thơ về cảnh và người Việt Bắc,
những con người bình dị mà bằng những công việc nhỏ bé của mình đã làm nên cuộc
kháng chiến vĩ đại. Bức tranh ấy đã in hình đường nét, màu sắc vào nỗi nhớ của
người ra đi. Mang nỗi nhớ này vào cuộc sống mời, dù là cuộc sống nơi phố phường
nhộn nhịp, đông vui vẫn không lấn át được những sắc màu riêng của một vùng kỉ
niệm.
* *
*
B.Thiên nhiên Việt Bắc đã cùng con người đánh giặc
Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc
trong cuộc kháng chiến chống Pháp còn sát cánh với con người tạo nên một trận địa
rộng lớn bao vây quân thù. Việt Bắc ngày ấy, núi rừng hiểm trở làm thành một
căn cứ địa vững chắc che giấu cán bộ bộ đội, khiến cho quân thù không phát hiện
được; mặt khác, rừng cây, núi đá cũng đã “tạo thành một thiên la địa võng mà hễ
quân thù đặt chân vào là như lạc vào một trận đồ bát quái không tìm được đường
ra.” Quả đúng là “rừng che bộ đội, rừng
vây quân thù”. Hai câu tiếp theo:
“Mênh mông bốn mặt
sương mù
Đất trời ta cả, chiến khu một lòng”
cũng nói lên sức mạnh rừng núi quê hương ta. Sự đối lập
giữa “mênh mông bốn mặt” với “một lòng” đã nhấn mạnh sự đồng lòng thống
nhất ý chí trong kháng chiến. Vì thế, “luỹ
sắt dày” và “bốn mặt sương mù” đã
mang một ý tưởng mới. Chúng trở thành biểu tượng của trận địa lòng dân, của đất
trời, sông núi Việt Nam
và là đất chết của kẻ thù. Đúng như Nguyễn Đình Thi đã viết :
“Những làng xóm đã mọc lên luỹ thép
Những cánh đồng
thành bể dầu sôi
Quân giặc
kinh hoàng đi trên đất chết
Mỗi bước đi
lạnh toát mồ hôi”
Đăng nhận xét