Luyện thi đại học môn Văn: Tóm tắt sự nghiệp
của Nam
Cao.
Xem thêm: Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
Xem thêm: Chí Phèo và bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người
Bài Làm
Trên bầu trời dòng văn học hiện thực
phê phán, vào giai đoạn cuối (1939 – 1945), Nam Cao (1917 – 1951), tên thật là
Trần Hữu Tri ở làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam đã nổi bật lên như một
ngôi sao long lanh toả sáng.
Sự nghiệp văn học Nam Cao có thể
chia làm hai giai đoạn:
A.
Trước Cách mạng:
1. Từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường,
Nam Cao đã mơ ước sáng tác. Những tác phẩm của ông lúc này còn mang nặng khuynh
hướng lãng mạn, thoát ly, thi vị hóa hiện thực mà sau này ông đã tự phê phán
cho đó là thứ văn chương như “ánh trăng lừa
dối”. Ông kí các bút danh: Thuý Rư, Xuân Du, Nhiêu Khê, Nguyệt… Chỉ mãi đến
năm 1941, khi kiệt tác “Chí Phèo” ra
đời, Nam Cao mới chuyển hẳn sang trường phái hiện thực theo con đường nghệ thuật
“vị nhân sinh” để kế tục những tên tuổi
lừng danh như: Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng…
2. Những sáng tác của Nam Cao trước
Cách mạng tháng tám tập trung vào hai đề tài chính:
- Cuộc sống của những người tiểu tư
sản nghèo.
- Cuộc sống của những người nông dân
cùng khổ.
Dù viết về đề tài nào thì điều mà
Nam Cao quan tâm trước tiên và day dứt nhất là tình trạng con người bị tha hoá
và bị xói mòn về nhân phẩm, thậm chí bị huỷ hoại cả nhân tính trong xã hội phi
nhân đạo đương thời.
3. Về đề tài trí thức tiểu tư sản,
đáng chú ý là các truyện ngắn: “Trăng
sáng”, “Đời thừa”, “Nước mắt”, “Quên
điều độ”, “Những chuyện không muốn viết”… và tiểu thuyết “Sống mòn” (1944). Trong những tác phẩm
này, Nam Cao đã miêu tả hết sức chân thực và cảm động tình trạng nghèo khổ, sống
dở chết dở của người trí thức nghèo. Trong đó, tác giả đặc biệt đi sâu vào những
tấn bi kịch tâm hồn họ. Đó là tấn bi kịch dai dẳng, thầm lặng mà đau đớn của những
con người có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân phẩm; có hoài bão lớn về
một sự nghiệp tinh thần cao cả, nhưng lại bị gánh nặng cơm áo và cuộc sống tàn
nhẫn đầy rẫy bất công đẩy vào cảnh “Đời
thừa”.
Phê phán cái xã hội phi nhân đạo đã
bóp nghẹt sự sống và tàn phá tâm hồn con người, Nam Cao đồng thời cũng thể hiện
niềm khao khát hướng tới cuộc sống đẹp đẽ xứng đáng với con người.
4. Ở đề tài người nông dân: là nhà
văn sinh ra và lớn lên nơi chốn bùn lầy, nước đọng, Nam Cao hiểu biết khá sâu sắc
về cuộc sống những con người thấp cổ bé họng này. Ông đã để lại chừng 20 truyện
ngắn có giá trị về đề tài này, đáng chú ý là : “Lão Hạc”, “Chí Phèo”, “Nghèo”… “Trẻ con không được ăn thịt chó”,… “Dì Hảo”.
Qua những tác phẩm trên, Nam Cao vừa mô tả một cách thấm thía và cảm động những
số phận tăm tối hẩm hiu bị tha hoá, bị lăng nhục của người nông dân, vừa kết án
sâu sắc cái xã hội tàn bạo đã tàn phá cả thể xác lẫn linh hồn của họ, đồng thời
phát hiện và khẳng định: phẩm chất lương thiện đẹp đẽ của họ ẩn giấu đằng sau
những tâm hồn tưởng như tối tăm và cằn cỗi đó. Chiều sâu của ngòi bút hiện thực
và nhân đạo của Nam Cao chính là ở đấy.
5. Nam Cao đã không thấy được khả
năng đổi đời của người nông dân và triển vọng xã hội. Tuy vậy, trong truyện ngắn
“Điếu văn” (1944), Nam Cao đã có lời
chào đón chân thành, tha thiết tia sáng bình minh đang bừng dậy ở chân trời “Cuộc đời không thể cứ mù mịt mãi mãi thế này
đâu… một rạng đông đã báo rồi!”.
B.
Sau Cách mạng:
1. Nam Cao là một trong ít nhà văn đến
với Cách mạng từ đầu. Năm 1948, ông được kết nạp vào Đảng. Ông tham gia hội văn
hoá cứu quốc, tích cực hoạt động Cách mạng kháng chiến.
2. Nam Cao được xem là một trong những
cây bút tiêu biểu nhất trong những năm đầu của kháng chiến chống Pháp. Thời kì
này ông viết được nhiều tác phẩm có giá trị như nhật kí “Ở rừng” (1948), “Chuyện biên
giới” – ký sự. Đặc biệt là truyện ngắn “Đôi
mắt”, xứng đáng là một tuyên ngôn nghệ thuật của tầng lớp văn nghệ sĩ, tiểu
tư sản theo kháng chiến.
3. (Phong cách) Nam Cao có biệt tài
trong việc miêu tả, phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ của Nam Cao sống động,
uyển chuyển, tinh tế, rất gần với lời ăn tiếng nói của quần chúng. Ông có ngòi
bút vừa tỉnh táo, vừa sắc lạnh, vừa nặng trĩu suy tư và đằm thắm yêu thương.
Văn Nam Cao vừa hết sức chân thực, vừa thấm đượm ý vị, triết lí, trữ tình.
Kết luận:
- Năm 1951 trên đường về quê công
tác, ông bị kẻ thù phục kích giết chết giữa khi tài năng đang độ nở rộ. Nam Cao
ngã xuống trong tư thế người nghệ sĩ - chiến sĩ. Ông hoạt động văn học chỉ trên
dưới mười năm nhưng đã để lại một sự nghiệp văn học lớn lao. Nam Cao được đánh
giá là nhà văn đứng ở vị trí hàng đầu trong nền văn xuôi Việt Nam thế kỉ XX và
xứng đáng được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật - đợt I năm
1996.
- Cuộc đời lao động nghệ thuật vì lý
tưởng nhân đạo, lý tưởng Cách mạng, và sự hi sinh anh dũng của Nam Cao mãi mãi
là một tấm gương cao đẹp của nhà văn - chiến sĩ.
Đăng nhận xét