ĐỀ 2
Một đoạn
trong trường ca Mặt đường khát vọng,
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm viết:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những
núi Vọng Phu
………………………………………
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi…
Anh hoặc chị hãy phân tích đoạn thơ trên để làm nổi
bật tư tưởng Đất Nước của Nhân dân của Nguyễn Khoa Điềm.
A. YÊU CẦU:
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân là tư tưởng cơ bản,
điểm quy tụ mọi cách nhìn về đất nước, cũng là đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm
làm sâu sắc thêm ý niệm về đất nước của thơ chống Mĩ cứu nước và làm sâu sắc
thêm nhận thức về Nhân dân, Đất Nước. Qua việc phân tích đoạn thơ trên, bài làm
phải làm bật tư tưởng Đất Nước của nhân dân của nhà thơ.
B. HƯỚNG DẪN LÀM BÀI:
1.
Ở đoạn thơ trên, Đất Nước được quy tụ bằng một loạt những hình ảnh, những hiện
tượng, những địa danh, những danh nhân… mà bất cứ người Việt Nam nào cũng nhận
ra: Hòn Trống Mái, núi Vọng Phu, voi Hùng Vương, ngựa Thánh Gióng, núi Bút, non
Nghiêng, vịnh Hạ Long hay những địa phương mang tên những Ông Đốc, Ông Trang,
Bà Đen, Bà Điểm v.v…. Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là
một cách nhìn có chiều sâu và là một phát hiện mới mẻ:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những
núi Vọng Phu
………………………………………………
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang,
Bà Đen, Bà Điểm
Những
cảnh quan thiên nhiên kỳ thú của đất nước khắp Bắc Trung Nam (Đá vọng phu, hòn
Con Cóc, Con Gà hay hòn Trống Mái v.v..) được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và
qua lịch sử của dân tộc. Nếu không có những người vợ mòn mỏi nhớ chồng qua các
cuộc chiến tranh và li tán thì cũng không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu; nếu
không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì cũng không có thể có sự cảm
nhận như vậy về vẻ hùng vĩ của vùng núi đồi xung quanh đền vua Hùng…
Tác giả đã liệt kê hàng loạt hiện
tượng rồi quy nạp để đi đến một khái quát sâu sắc: Núi sông này và cuộc đời của
dân tộc là một:
Và ở đâu trên
khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một
dáng hình, một ao ước, một lốt sống ông cha
Ôi đất nước
bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời
đã hóa núi sông ta…
2. Khi nghĩ về bốn nghìn năm đất
nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng, mà nhấn
mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị, sinh ra, lớn lên, lao động và
đánh giặc từ thế hệ nọ tiếp nối thế hệ kia: Có
biết bao người con gái, con trai/ Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi/
Họ đã sống và đã chết/ Giản dị và bình tâm/ Không ai nhớ mặt đặt tên/
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Những con người vô danh và bình dị ấy đã
gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh, tinh
thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn
ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng… Họ cũng là những người:
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì
vùng lên đánh bại
3.
Tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là cao điểm của cảm xúc trữ tình là tư
tưởng “Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân” (nằm ở cuối đoạn trích). Cũng từ
điểm này, chúng ta hiểu thêm những ý thơ trên. Và khi nói đến Đất Nước của Nhân dân, một cách tự
nhiên, tác giả trở về với ngọn nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân
gian mà tiêu biểu là ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể
tìm thấy ở đó – trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích:
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Câu thơ hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa về Đất Nước…
thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Trong cả kho tàng ca dao, dân ca, ở đây tác
giả chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền
thống nhân dân, dân tộc: thật say đắm trong tình yêu (“Yêu em từ thuở trong nôi”), quí trọng tình nghĩa (“quí công cầm vàng những ngày lặn lội”) nhưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và
chiến đấu (“Trồng tre đợi ngày thành gậy
– Đi trả thù mà không sợ dài lâu”…).
Chúng ta lại gặp
cách vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà
chỉ sử dụng ý và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến câu ca dao nhưng lại trở
thành một câu, một ý thơ gắn bó trong mạch thơ của bài.
4. Tư tưởng Đất
Nước của Nhân dân của Nguyễn Khoa Điềm thực ra là sự kế thừa và phát triển
tư tưởng Đất nước của nhân dân đã manh nha trong lịch sử xa xưa, trải qua cuộc
kháng chiến chống Pháp và ở đây là chống Mĩ..
Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn của dân tộc đã từng nói lên
nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình
Chiểu, Phan Bội Châu) hoặc cảm thông sâu sắc với số phận của nhân dân, của mọi
lớp người trong nhân dân (Văn chiêu hồn,
Truyện Kiều của Nguyễn Du).
Đến nền
văn học hiện đại, được soi sáng bằng tư tưởng XHCN, bằng quan điểm mác xít về
nhân dân và nẩy nở từ trong thực tiễn vĩ đại của cuộc cách mạng mang tính nhân
dân sâu sắc, văn học từ sau Cách mạng tháng Tám đã đạt đến một nhận thức sâu
sắc về nhân dân và cảm hứng về đất nước mang tính dân chủ cao.
Thơ ca kháng
chiến chống Pháp là một ví dụ tiêu biểu (Tình
sông núi của Trần Mai Ninh, Đất nước
của Nguyễn Đình Thi, Bên kia sông Đuống
của Hoàng Cầm).
Đến giai
đoạn chống MĨ, tư tưởng Đất nước của Nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu
sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân
dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này.
Tư tưởng
ấy được các nhà thơ lớp trẻ thời chống Mĩ cứu nước phát biểu một cách thấm thía
qua sự trải nghiệm của chính mình như những thành viên của nhân dân, cùng chia
sẻ mọi gian lao, hi sinh và được sự chở che, đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân (Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy, các trường
ca Những người đi tới biển của Thanh
Thảo và Đường tới thành phố của Hữu
Thỉnh đều tập trung nói về những gương mặt của các con người bình thường, vô
danh trong nhân dân và không phải ngẫu nhiên mà đều bắt đầu bằng hình ảnh người
mẹ).
C. KẾT LUẬN:
Đây là đoạn thơ trữ tình – chính
luận. Chất chính luận nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả: thức tỉnh tinh thần
dân tộc của thế hệ trẻ thành thị miền Nam, để dứt khoát đứng về phía nhân dân
và cách mạng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Đoạn thơ
thể hiện được những chỗ mạnh của thơ Nguyễn Khoa Điềm: kết hợp cảm xúc và suy
nghĩ, chính luận và trữ tình.
Thành công của đoạn trích là việc tạo ra một không
khí, giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng đầy màu sắc sử thi, đưa người
đọc vào thế giới gần gũi, mĩ lệ và giàu sức bay bổng của ca dao, truyền thuyết,
của văn học dân gian, nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và tư duy hiện đại với
hình thức câu thơ tự do. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mĩ, thống nhất với tư
tưởng “Đất Nước của Nhân dân – Đất Nước
của ca dao thần thoại” trong đoạn thơ.
Tuy nhiên, nhược điểm của đoạn thơ là chính luận có
chỗ còn nặng nề, lấn át cảm xúc; nhiều ý kiến triển khai còn trùng lặp, dàn
trải trong mỗi đoạn, chưa thật cô đọng để gây ấn tượng tập trung; nội dung
chính luận không phải chỗ nào cũng mới mẻ và sâu sắc.
Đăng nhận xét